- VĂN KIỆN
Sau ca nhập lễ, vị tư tế, đứng tại ghế, cùng toàn thể cộng đoàn làm dấu thánh giá. Tiếp đó, dùng lời chào mà nói cho cộng đoàn biết là có Chúa hiện diện… Sau khi chào giáo dân xong, vị tư tế hay phó tế, hay một thừa tác viên khác có thể nói ít lời dẫn nhập tín hữu vào Thánh lễ hôm ấy (QCSL 50).
- LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA
Làm dấu thánh giá là một thói quen lâu đời trong Kitô giáo bắt nguồn và dựa trên bản văn Tin Mừng Mt 28,19: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm Bí tích Rửa tội cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.”
Có lẽ thực hành này đã có từ thế kỷ thứ II nhằm gợi lại sự kiện máu con chiên được bôi trên cửa của những người Do Thái tại Ai Cập vào đêm Vượt qua (x. Xh 12,7) và báo trước dấu ấn sẽ được ghi trên trán của các vị thánh trên trời.
Từ “dấu” trong tiếng Hipri là Tav. Đây là chữ cuối cùng trong bảng chữ cái của ngôn ngữ này và có hình dạng được viết như hình thánh giá (T hay X). Dấu được sử dụng trong Edêkien 9 là dấu ấn nói lên chủ quyền của Thiên Chúa trên đối tượng được ghi dấu. Bởi vậy, khi làm dấu thánh giá chúng ta đồng hóa mình là dân của Chúa. Các thiên thần trong Kh 7,2-3 cũng mang dấu ấn của Thiên Chúa. Dấu ấn này cũng liên kết chúng ta với danh của Con Chiên và thánh danh Chúa Cha (Kh 14,1; 22,4). Bởi vậy, ngay từ thế kỷ III Giáo phụ Tertullianô đã dạy rằng: “…mỗi bước đi và di chuyển, mỗi lần đi vào và đi ra, khi mặc y phục và xỏ giày…trong tất cả mọi hoạt động thường ngày, chúng ta hãy ghi dấu thánh giá.”[1]
Theo truyền thống từ xa xưa, các tín hữu làm dấu thánh giá khi bắt đầu mỗi công việc, đặc biệt là khi khai mở cử hành phụng vụ.[2] Dĩ nhiên, cách thức chỉ là ghi dấu thánh giá [nhỏ] trên trán như đứa trẻ được cha mẹ và những người đỡ đầu thực hiện trong nghi thức Thanh tẩy hiện nay.[3] Từ đầu thế kỷ III, tại Phi châu và Rôma, việc ghi dấu thánh giá trên trán trong nghi thức khai tâm Kitô giáo đã trở thành một phương thức truyền thống bày tỏ người đón nhận thuộc về Chúa Kitô. Cuối thế kỷ IV, làm dấu thánh giá được thực hiện nhiều lần khi cử hành các bí tích. Đến thế kỷ IX, khi tới bàn thờ, Đức Giáo hoàng ghi dấu thánh giá chỉ trên trán của ngài.[4] Mãi tới thời hậu Trung cổ (1100-1400), trong phụng vụ Rôma, việc làm dấu thánh giá lúc bắt đầu Thánh lễ mới xuất hiện khi chủ tế dẫn vào lời nguyện nhập lễ tại chân bàn thờ… Đó là những lời nguyện được linh mục đọc trên đường dẫn tới cung thánh.[5] Theo Jungmann, công thức và hành động làm dấu thánh giá lúc khởi đầu Thánh lễ thời Trung cổ là nhằm “khấn xin phúc lành của Thiên Chúa” và thừa nhận rằng “chúng ta bắt đầu hành vi thánh thiện trong quyền năng từ Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ thập giá Chúa Kitô.”[6]
Dấu thánh giá mang thêm nhiều ý nghĩa sau đó và trở thành một cử điệu trừ tà. Vào thế kỷ thứ XIII, Đức Innocent III (cùng thời với thánh Phanxicô Atxixi) mô tả tập tục làm dấu thánh giá ở Tây phương đồng thời cũng hướng dẫn các tín hữu ý nghĩa của dấu thánh giá rằng:
Dấu thánh giá được làm với 3 ngón tay (cái, trỏ và giữa) chụm lại với nhau bởi vì dấu hiệu được thực hiện với sự khẩn cầu Ba Ngôi Thiên Chúa. Cách làm như thế này: từ trên xuống dưới, và từ phải qua trái, bởi lẽ Đức Kitô đã từ trời xuống thế và từ người Do Thái (phải) Người tiến sang dân ngoại (trái).
Bấy giờ, cả Đông lẫn Tây phương, mọi người vẫn làm dấu thánh giá như trên, nghĩa là từ phải qua trái, nhưng sau lại bắt chước phép lành của linh mục, họ đã bắt đầu làm dấu từ trái qua phải. Thế là, từ nhiều thế kỷ qua, Tây phương vẫn cứ theo cách làm dấu thánh giá như thế, tức là từ trái qua phải. Đó là lý do tồn tại cho đến nay truyền thống Đông phương làm dấu từ phải qua trái trong khi Tây phương lại làm từ trái qua phải và đã phát triển thành truyền thống phụng vụ.[7]
Dấu thánh giá là dấu chỉ thánh thiện nhất trong các dấu chỉ. Dấu thánh giá còn là dấu chỉ của vũ trụ và là dấu chỉ sự cứu độ nhân loại nhờ duy chỉ thập giá vinh thắng của Chúa Giêsu Kitô (x. Rm 5,8). Ngài thánh hóa và cứu độ con người nhờ thánh giá (x. Cv 4,12). Làm dấu thánh giá là một hình thức tuyên xưng đức tin trong Chúa Kitô.[8] Vì vậy, dấu thánh giá thánh hiến và thánh hóa các tín hữu trong sức mạnh của Chúa Kitô và trong danh Ba Ngôi Thiên Chúa. Dấu thánh giá không chỉ hướng lòng các tín hữu lên Chúa Ba Ngôi, kêu cầu danh Thiên Chúa Ba Ngôi, nhưng còn nài xin ân sủng của Thiên Chúa do thập giá Chúa Kitô đem lại và nhắc nhớ họ về nguồn mạch của công cuộc thánh hóa là hy tế của Đức Kitô, về bí tích Thánh tẩy mà tất cả Kitô hữu đã được lãnh nhận nhân danh Chúa Ba Ngôi, nhờ đó, họ được gia nhập Hội Thánh, thành dân của Chúa, được sống một đời sống mới (x. Rm 6,3-4), được bước vào gia đình thân mật của Ba Ngôi Thiên Chúa và được tham dự vào chức tư tế của Chúa Giêsu. Do đó, họ cũng được quyền tế lễ với Chúa Kitô và tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi.[9]
Ngay lúc bắt đầu Thánh lễ, việc làm dấu thánh giá trên mình nhằm diễn tả các tín hữu được triệu tập dưới dấu hiệu của thánh giá[10] và họ “ngước nhìn lên Đấng người ta đã đâm thâu” (Ga 19, 37).[11] Dấu thánh giá làm trên mình đặt các tín hữu trong tương quan với Chúa Cha, nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần, cũng như nhắc nhớ về bí tích Thánh tẩy của họ.
III. ĐỀ NGHỊ MỤC VỤ
Chủ tế đứng tại ghế chủ tọa [hơn là ở bất cứ vị trí nào khác trong cung thánh], cùng toàn thể cộng đoàn làm dấu thánh giá trên mình (NTTL 1; QCSL 50, 124; LNGM 131).
- SUY NIỆM[12]
Khi bắt đầu cử hành Thánh lễ, chúng con làm dấu thánh giá đang khi vị chủ tế cất tiếng đọc “Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”. Lạy Chúa Giêsu, chúng con vẫn thường tự hỏi tại sao chúng con lại phối hợp dấu thánh giá với danh Ba Ngôi chí thánh. Chúng con tin rằng chính bởi vì mọi kinh nguyện của Kitô hữu đều gợi lại hy tế trên thập giá. Chúng con kết hợp cả hai để nhắc nhớ mình rằng Chúa đã quy tụ chúng con để cử hành tiệc thánh nhân danh Chúa Ba Ngôi trong sự tưởng niệm Chúa chịu nạn và chịu chết trên thánh giá.
Dấu thánh giá là một phương tiện nhờ đó chúng con thừa nhận sự hiện diện của thánh giá Chúa trong cuộc đời chúng con. Chúng con làm dấu thánh giá trong những hoàn cảnh khác nhau: lúc vui cũng như khi buồn; lúc gặp hiểm nguy hay do tai họa từ thiên nhiên; khi khởi sự cầu nguyện hay bắt tay vào công việc gì. Lạy Chúa, thánh giá Chúa là biểu tượng cho quyền năng Chúa và nhắc nhớ chúng con nhiều điều.
Khi chúng con làm dấu thánh giá, chúng con kêu cầu danh Chúa Ba Ngôi. Chính do ý muốn và quyền bính của Chúa Cha và với uy lực của Chúa Thánh Thần mà Chúa, lạy Chúa Giêsu, đã vác thập giá lên đồi Canvê. Khi Chúa từ bỏ mạng sống mình, sự xấu xa của tội lỗi nhân loại hiện ra càng ghê gớm nhưng rồi lòng trắc ẩn đầy yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi đã được tỏ hiện. Lạy Chúa, chính trên thánh giá, Chúa đã quay về với cung lòng của Chúa Cha và dạy chúng con biết rằng nhờ chịu đóng đinh vào thánh giá mà chúng con được kéo lên với Chúa. Cũng chính trên thánh giá mà Chúa đã ban Thánh Thần cho chúng con – Đấng đã đồng hành với Chúa từ nhập thể cho đến khi bị đóng đinh trên thánh giá. Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn bám chặt không rời khỏi Chúa Thánh Thần khi chúng con phải đương đầu vượt qua sóng gió cuộc đời này.
Khi chịu phép thanh tẩy, chính với dấu thánh giá ghi trên trán chúng con và nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Chúa Cha đã đón nhận chúng con làm con cái của Người. Nhờ thánh giá, Chúa Thánh Thần được ban cho chúng con. Ước gì bí tích rửa tội chúng con lãnh nhận luôn giữ mãi trong lòng trí chúng con sự hiện diện của Chúa Thánh Linh và quyền năng của thánh giá.
Thánh Ambrosio nói rằng Chúa Thánh Thần và thánh giá nằm ngay trong nước rửa tội. Điều này đã họa ra trong trí chúng con về cuộc đời mình, cuộc đời đã được nhận chìm trong dòng nước thanh tẩy. Chính nơi dòng nước này mà chúng con, khi bám lấy thập giá Chúa, đã được hòa hợp với Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần. Lạy Chúa, xin hãy để cho dòng nước thánh tẩy thường xuyên tồn tại trong chúng con. Xin luôn luôn nhắc nhớ chúng con rằng bên ngoài dòng nước này, chúng con sẽ chẳng thể nào hít thở được thần khí sự sống của Chúa Thánh Linh; không có dòng nước rửa tội này, chúng con sẽ không thể thấu hiểu được thập giá. Cuộc sống sẽ là gì nếu không thông hiệp với Chúa Ba Ngôi? Đời sống chúng con sẽ bấp bênh chao đảo thế nào nếu không có đồn lũy của thập giá chở che?
Nguồn: hdgmvietnam.com
[1] De Corona, 3:4, CCL 2:1043, trích lại trong Paul Turner, At the Supper of the Lamb (Chicago: Liturgy Training Publications, 2011), 4.
[2] Trần Đình Tứ, Phụng vụ Thánh lễ (Sài Gòn: ĐCV Thánh Giuse, 1997), 35; Le Gall, La Mess au fil de ses rites (Chambray: C.L.D, 1992), 24.
[3] James P. Moroney, The Mass Explained (New Jersey: Catholic Book Publishing Corp., 2008), 40.
[4] Trích lại trong John D. Laurance (ed.), The Sacrament of the Eucharist (Collegeville: The Liturgical Press, 2012), 102.
[5] Lawrence J. Johnson, The Mystery of Faith: A Study of the Structural Elements of the Order of the Mass (Washington DC: FDLC, NE, 2003), 10.
[6] Jungmann, SJ, The Mass of the Roman Rite: Its Origins and Development (Missarum Sollemnia), vol. 1, trans. Francis A. Brunner (New York: Benziger Brothers, 1951), 296-297.
[7] X. Cassian Folsom, OSB, “Sacred Signs and Active Participation at Mass”, Adoremus, vol. IV, no. 3 (May/June 1998), acc, 25/06/2023, https://www.ewtn.com/catholicism/library/sacred-signs-and-active-participation-in-mass-4253.
[8] X. Romano Guardini, Sacred Signs, trans. by Grace Branham, Pio Decimo Press, St. Louis, 1956, http://www.ewtn.com/library/LITURGY/SACRSIGN.TXT; Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh, Thánh lễ 2, 107.
[9] X. A. M. Roguet, Tìm hiểu Thánh lễ, 21 ; Le Gall, La Mess au fil de ses rites, 24.
[10] Eugenio Costa, “Phần Mở đầu Thánh lễ,” trong Họp nhau Cử hành Phụng vụ, tập II (Đồng Nai: Nxb. Đồng Nai, 1992), 148-149.
[11] J. Gélineau, Họp nhau Cử hành Phụng vụ, tập II, 148-149.
[12] Anscar J. Chupungco, OSB, Meditations on the Mass (Quezon: Claretian Publications and Flipside Publishing, 2013), dg. Giuse Phạm Đình Ái, SSS.